Nép mình bên sườn núi, làng Ma Đanh ở xã Tu Tra (Đơn Dương, Lâm Đồng) còn khá hoang sơ, là một trong những ngôi làng hiếm hoi còn lưu giữ nhiều nét văn hóa bản địa. Mặc dù chỉ có nghệ nhân Ya Tuất (truyền nhân đời thứ 6 của một dòng họ người Chu Ru) hành nghề nhưng UBND tỉnh Lâm Đồng vẫn quyết định công nhận nghề làm nhẫn bạc ở làng này đạt tiêu chí nghề truyền thống.
Tại nhà của nghệ nhân Ya Tuất, chúng tôi hoa mắt với chiếc khay đựng nhẫn, vòng bạc và bông tai. Ông có thể làm được 12 loại nhẫn khác nhau như nhẫn đính hạt, mắt sâu, bông lúa, mặt trời… và đặc biệt nhất là những cặp nhẫn đính hôn dành cho cô dâu, chú rể. “Srí căr là nhẫn mái dành cho nữ giới và Srí lơ hây là nhẫn trống dành cho nam giới. Đó không chỉ là những vật trang sức, của hồi môn mà còn là tín vật thiêng liêng không thể thiếu khi sơn nữ bắt chồng”, Bà Ma Wel (vợ của Ya Tuất) nói rồi đưa cho chúng tôi xem chiếc nhẫn mái đính hạt cây rừng màu ngọc bích duyên dáng; kế đến là nhẫn trống đính hạt kă réh hái trên rừng với sắc đỏ như hồng ngọc. Trong khi nhẫn mái trơn bóng thì nhẫn trống được trang trí bằng 12 vòng xoắn quấn quanh chiếc nhẫn thể hiện 12 tháng của năm trông rất tinh xảo.
“Sở dĩ dùng phân trâu để chế tác nhẫn vì trâu là con vật tổ thiêng liêng của người Chu Ru; loại đất sét để làm khuôn bạc là đất bí mật trong rừng, chỉ nghệ nhân mới biết; củi dùng nấu bạc phải là loại cây rừng có tên kasiu. Đêm trước khi đúc nhẫn, nghệ nhân phải cách ly hoàn toàn với vợ; trước khi nổi lửa đổ bạc vào khuôn nhẫn, phải thực hiện nghi lễ “tẩy uế”, khấn xin Yàng và các vị thần linh phù hộ cho mẻ đúc diễn ra suôn sẻ”. già Ma Liên chia sẻ
Ya Tuất kể phải mất 15 năm học nghề từ người cậu (nghệ nhân Ya Grang - PV) và sau nhiều năm hành nghề mới chế tác được những chiếc nhẫn đẹp thế này. Nhẫn bạc Chu Ru được làm hoàn toàn bằng thủ công, chủ yếu dựa vào bí quyết của dòng tộc và sự khéo tay của người thợ. Ngoài con dao, các dụng cụ còn lại như bễ thổi, ống thổi, kẹp khuôn đúc… đều bằng cây rừng.
Việc chế tác rất tỉ mỉ, kỳ công, nhất là khâu làm khuôn nhẫn. Nghệ nhân chọn phần dẻo, tinh khiết nhất của tổ ong, đun cho nóng chảy, rồi lấy dùi gỗ nhúng vào sáp, để cho nguội nhằm tạo ra những ống sáp tròn; sau đó cắt những ống sáp này thành các khoen tròn để tạo khuôn đúc nhẫn. Kế đến là se sáp thành những sợi mảnh như chỉ rồi bện thành các hình khác nhau để tạo ra các họa tiết trang trí cho nhẫn.
Nghệ nhân Ya Tuất và cặp nhẫn đính hôn do ông chế tác |
Ya Tuất lấy khuôn sáp nói trên nhúng vào dung dịch đất và phân trâu rồi phơi nắng cho khô hoàn toàn, sau đó đem đốt trên lửa than để sáp bên trong nóng chảy, còn phần dung dịch đất và phân trâu kết lại thành khuôn âm bản. Bạc vừa được nấu chảy và đổ vào khuôn âm bản này sẽ cho ra chiếc nhẫn màu xỉn đen; tuy nhiên, sau khi được bỏ vào nồi bồ kết đang đun sôi, chiếc nhẫn sáng dần và lấp lánh ánh bạc.
Bởi việc chế tác đậm tính tâm linh như vậy nên người Chu Ru càng tin tưởng vào sự huyền diệu của chiếc nhẫn. Một khi lồng nhẫn vào ngón tay nhau thì đôi trai gái thường gắn kết đến trọn đời; ngoại tình là trọng tội, bị phạt vạ rất nặng. Sau đám cưới 7 ngày, cô dâu cởi nhẫn của mình trao cho mẹ chồng và ngược lại nhẫn của chú rể do mẹ cô dâu cất giữ. Ai đòi ly hôn trước thì người đó phải đền bên kia một con trâu trưởng thành. Trường hợp vợ hoặc chồng ngoại tình thì kẻ phản bội phải đền 3 con trâu, con cái càng đông, số trâu càng tăng lên.