Tỉnh duy nhất có ba mặt đất liền giáp biển?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Cà Mau là tỉnh cực Nam của Việt Nam cũng là tỉnh duy nhất cả nước có ba mặt giáp biển. Phía Bắc và Đông Bắc tỉnh Cà Mau giáp Kiên Giang, Bạc Liêu; phía Đông và Đông Nam giáp biển Đông; phía Tây giáp vịnh Thái Lan. Theo Cổng thông tin điện tử Cà Mau, tỉnh nằm trên bán đảo, có vị trí địa lý khá đặc biệt, với ba mặt tiếp giáp biển. Cà Mau là vùng đồng bằng, có nhiều sông rạch, địa hình thấp, bằng phẳng và thường xuyên bị ngập nước. Độ cao bình quân 0,5-1,5 m so với mặt nước biển. Hướng địa hình nghiêng dần từ Bắc xuống Nam, từ Đông Bắc xuống Tây Nam. Lãnh thổ tỉnh gồm hai phần: đất liền và vùng biển chủ quyền. Phần đất liền rộng hơn 5.294 km2, xếp thứ hai Tây Nam Bộ. Trong đó, diện tích đất nuôi trồng thủy sản trên 266.735 ha, đất trồng lúa 129.204 ha, đất lâm nghiệp 103.723 ha. Vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam do Cà Mau quản lý rộng hơn 71.000 km2; có đảo Hòn Khoai, Hòn Chuối, Hòn Buông và Hòn Đá Bạc.
Mũi Cà Mau - điểm cực Nam trên đất liền của Việt Nam nằm ở huyện nào của Cà Mau?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án C: Theo Cổng thông tin điện tử Cà Mau, tỉnh này có bờ biển trên 254 km, chiếm một phần ba chiều dài bờ biển vùng đồng bằng sông Cửu Long; có nhiều cửa sông thông ra biển như Gành Hào, Bồ Ðề, Ông Ðốc, Ông Trang, Bảy Háp, Khánh Hội.. Cà Mau rộng 5.221 km2, gồm TP Cà Mau và tám huyện Cái Nước, Đầm Dơi, Năm Căn, Ngọc Hiển, Phú Tân, Thới Bình, Trần Văn Thời, U Minh. Đây là vùng đất trẻ, mới được khai phá khoảng trên 300 năm. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức có chép: "Thời Gia Long, những giồng đất cao ráo ở ven sông Ông Đốc, sông Gành Hào, sông Bảy Háp và một vài phụ lưu mới có người khai khẩn, lập thành xóm, ấp. Tuy vậy, đến thời Tự Đức, Cà Mau vẫn là vùng rừng đước, vẹt, tràm, không mấy ai đến lập nghiệp vì thiếu nước ngọt và ruộng quá nhiều phèn". Mũi Cà Mau là phần chót mũi, thuộc ấp Đất Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển. Chót mũi có hình dáng kỳ lạ và đang tiến ra biển (vịnh Thái Lan) với tốc độ 50-80m mỗi năm. Đây được coi là điểm cực Nam trên đất liền của tổ quốc.
Ba dân tộc có dân số đông nhất ở Cà Mau gồm?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Cà Mau hơn 1,2 triệu dân, đứng thứ chín trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (hơn các tỉnh Trà Vinh, Vĩnh Long, Hậu Giang và Bạc Liêu). Dân cư sinh sống trên địa bàn Cà Mau có 14 thành phần dân tộc, trong đó ba dân tộc có dân số lớn nhất gồm: người Kinh 97%; Khmer 2,19%; Hoa 0,53%. Các dân tộc khác ở Cà Mau gồm Mường, Thái, Tày, Nùng, Giao, Gia Rai, Ê Đê, Chăm, Chu Ru, Si La. Cà Mau là tỉnh tập trung sáu tôn giáo gồm Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam. Kinh tế ở Cà Mau gồm các thành phần nông nghiệp, công nghiệp, thủy sản và lâm nghiệp.
Dân tộc nào ít người nhất Việt Nam?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án C: Theo Cổng thông tin Ủy ban Dân tộc dẫn kết quả điều tra dân số năm 2019 cho biết, dân tộc Ơ Đu có 428 người, tức dân số ít nhất trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam. Người Ơ Ðu xưa kia cư trú dọc theo hai con sông Nậm Mộ và Nậm Nơn (bắt nguồn từ Lào chảy vào Việt Nam tại tỉnh Nghệ An). Do nhiều biến cố lịch sử, người Ơ Đu phải dời đi nơi khác hay sống cùng với các cư dân mới đến. Hiện, người Ơ Ðu cư trú tập trung ở một số bản tại huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An. Ở Lào, họ hợp với nhóm Tày Phoọng cư trú ở tỉnh Sầm Nưa. Theo quy định của Chính phủ, dân tộc thiểu số rất ít người là những dân tộc có số dân dưới 10.000 người. Hiện, cả nước có 16 dân tộc thiểu số rất ít người, gồm: Si La, Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm, Pu Péo, Cống, Mảng, Bố Y, Lô Lô, Cờ Lao, Ngái, Lự, Pà Thẻn, Chứt, La Ha, La Hủ. Trong đó, ngoài dân tộc Ơ Đu, một số dân tộc khác có dân số dưới 1.000 người theo thống kê năm 2019 như Si La, Pu Péo, Brâu, Rơ Măm.
Người Ơ Đu sống chủ yếu bằng nghề gì?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Mỗi năm, người Ơ Đu chỉ làm một vụ. Họ phát, đốt, gieo hạt tháng 4-5 âm lịch, thu hoạch và tháng 9-10. Công cụ làm rẫy gồm rìu, dao, gậy chọc lỗ. Ngoài lúa là giống cây trồng chính, họ còn trồng sắn, bầu, bí, ngô, ý dĩ, đỗ. Hái lượm và săn bắn vẫn có vị trí quan trọng trong đời sống. Người Ơ Đu nuôi trâu, bò dùng làm sức kéo, kéo cày; lợn, gà để sử dụng trong các dịp cưới, nghi lễ tín ngưỡng, cúng ma. Người dân còn đan lát đồ gia dụng bằng giang, mây, một phần tiêu dùng, phần để trao đổi.
Ngày hội lớn nhất trong năm với người Ơ Đu là gì?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án C: Người Ơ Đu có hệ thống lễ hội như Tết Nguyên đán, Tết cơm mới. Ngày hội lớn nhất là lễ đón tiếng sấm trong năm. Ngày đó, cư dân khắp nơi đổ về mở hội tế trời, mổ trâu, bò, lợn ăn mừng tại bản. Trong tín ngưỡng, người Ơ Ðu tin rằng khi chết đi linh hồn ngụ tại bãi tha ma, hồn gốc ở chỏm tóc ở lại làm ma nhà. Ma nhà chỉ ở với con cháu một đời theo thứ tự từ con trai cả đến con trai thứ. Khi các con trai đã chết hết, người ta làm lễ tiễn ma nhà về với tổ tiên. Nơi thờ ma nhà tại góc hồi của gian thứ hai. Bàn thờ đơn giản, treo cao sát mái nhà. Theo tiếng Ơ Đu, Lễ đón tiếng sấm có nghĩa là “Chăm phtrong” gắn với tục thờ thần sấm. Người Ở Đu quan niệm, sấm như là một vị thần tối cao, biểu tượng cho sự linh thiêng. Vì vậy hàng năm, khi xuất hiện tiếng sấm đầu tiên thì đồng bào Ơ Đu lại tổ chức lễ hội để bắt đầu cho một năm mới. Đây là ngày tết lớn nhất trong năm của người Ơ Đu, được đồng bào tổ chức rất quy mô. Thời gian tổ chức lễ hội đón tiếng sấm thường diễn ra khoảng tháng 3 dương lịch, với nhiều hoạt động lễ và hội. Nghi lễ đón tiếng sấm được đồng bào Ơ Đu tổ chức với ba phần chính, đó Lễ đón tiếng sấm tại nhà ông mo, lễ đón tiếng sấm tại các gia đình và là lễ đón tiếng sấm chung cho cả cộng đồng.
Lễ vật trong dịp cưới của người Ơ Đu là gì?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án C: Do dân số ít, sống xen kẽ với người Khơ Mú và Thái nên các mặt quan hệ xã hội văn hóa của người Ơ Đu chịu nhiều ảnh hưởng hai dân tộc này. Trong đời sống, người Ơ Ðu theo họ Thái, Lào; tổ chức dòng họ rất mờ nhạt. Trưởng họ là người có uy tín, được kính trọng và có vai trò lớn trong dòng họ. Gia đình người Ơ Ðu là gia đình nhỏ phụ quyền. Ðàn ông quyết định tất thẩy công việc trong nhà, phụ nữ không được hưởng thừa tự. Họ phổ biến tục ở rể. Lễ vật trong dịp cưới không thể thiếu là thịt sóc, thịt chuột sấy khô và cá ướp muối. Người Ơ Ðu sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ của người Khơ Mú, Thái như: sáo, khèn, chiêng, trống; thuộc các làn điệu dân ca Khơ Mú, Thái, kể chuyện dã sử. Người Ơ Ðu có trò chơi đánh khăng, chơi quay, ném còn, ô ăn quan.
Dân tộc nào đông dân thứ hai Việt Nam?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Theo Cổng thông tin Ủy ban Dân tộc, dân tộc Tày có tên gọi khác là Thổ, dân số hơn 1,84 triệu người (2019). Tiếng nói người Tày thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai). Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên. Người Thái có dân số đông thứ ba ở Việt Nam, sau dân tộc Kinh và Tày, với khoảng 1,82 triệu người; tiếp theo là người Mường với khoảng 1,45 triệu người.
Người Tày sinh sống chủ yếu ở khu vực nào?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Hiện người Tày sống tập trung các tỉnh Ðông Bắc, từ Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang đến Lào Cai, Yên Bái. Bản của người Tày thường ở chân núi hay ven suối. Tên bản thường gọi theo tên đồi núi, đồng ruộng, khúc sông. Mỗi bản có từ 15 đến 20 nóc nhà, bản lớn chia ra nhiều xóm nhỏ. Nhà ở có nhà sàn, nhà đất và một số vùng giáp biên giới có loại nhà phòng thủ. Trong nhà phân biệt phòng nam ở ngoài, nữ ở trong buồng.
Nhà sàn là loại nhà truyền thống của người Tày. Họ tính quy mô nhà bằng đơn vị gì?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án B: Theo Dư địa chí Thái Nguyên, người Tày thích sống thành bản làng đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà. Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo 4-7 hàng cột. Nhà có hai hoặc bốn mái lợp ngói, tranh hay lá cọ. Ở xung quanh, nhà được thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa. Còn theo tài liệu Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam (Nhà xuất bản Giáo dục, 1997), trước đây, do còn nhiều rừng nên người Tày dựng nhà bằng các loại nguyên vật liệu được lấy từ rừng như tre, gỗ, lá cọ. Loại hình nhà sàn cột chôn là loại hình phổ biến. Sau năm 1960, khi thành lập hợp tác xã nông nghiệp, người dân mới có điều kiện làm loại nhà sàn cột kê trên đá tảng. Phần sàn dùng cho người ở, phần gác để sấy khô, cất giữ một số lương thực, thực phẩm và gầm sàn dùng để nhốt gia súc, gia cầm, chất củi, để nông cụ, cối giã và đan lát. Người Tày không tính quy mô ngôi nhà bằng số gian mà tính bằng cột chính, chẳng hạn loại nhà 8 cột, 10 cột, 12 cột. Mặt bằng nhà có dạng hình chữ nhật hay dạng gần hình vuông, trong đó dạng gần hình vuông là phổ biến.
Kết quả
Bạn hãy chăm chỉ hơn nhé!
Điểm