Đó là tòa thành Lồi, tồn tại ở xứ Huế qua hơn 1.000 năm, tọa lạc trên đồi Long Thọ, cách nội đô Huế chừng 4km. Tòa thành hiện được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia.
Theo sách Đại Nam nhất thống chí, ở xã Nguyệt Biều, huyện Hương Thủy (nay là TP Huế), tương truyền chúa Chiêm Thành có xây một tòa thành gọi là thành Phật Thệ. Nền cũ nay vẫn còn, tục gọi là “thành Lồi”.
Kết quả khảo sát cho thấy, chu vi tòa thành dài khoảng 2.000m có cấu trúc khép kín 4 mặt (trong đó lũy Nam 550m, lũy Đông 370m, lũy Tây 350m, lũy Bắc 750m) với đầy đủ hệ thống hào, thoát nước…
Cây cối bám phủ phía trên một đoạn thành cổ. Ảnh Quang Phúc |
Khó nhận diện ra đây là một ngôi thành cổ 1.000 năm tuổi do người Chăm-pa xây dựng nếu không tìm hiểu thông tin từ trước. Ảnh: Quang Phúc |
Về niên đại, theo cố giáo sư Trần Quốc Vượng, thành Lồi không thua kém gì thành Trà Kiệu (Quảng Nam). Năm 1989, đoàn nghiên cứu do cố giáo sư Trần Quốc Vượng dẫn đầu sau khi khảo cổ thực địa, nghiên cứu Thành Lồi, đã nhận xét: “Thành Lồi là một thành Chiêm lớn, xây dựng trên vùng đồi Dương Xuân Thượng với đầy đủ hệ thống hào, hệ thống thoát nước...”. Thành được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ V - VI.
Một đoạn thành Lồi xây bằng gạch trong tình trạng hoang phế. Ảnh: Quang Nhật (nld.vn) |
Theo các tài liệu nghiên cứu, tòa thành được đắp bằng đất có gia cố một lớp gạch gần phía trên mặt. Vị trí tạo nên thành quách được triệt để lợi dung địa hình sẵn có của các ngọn đồi cao phía Nam sông Hương, đó là dãy đồi Long Thọ. Khi thi công, chủ công trình cho chỉ gia cố, đắp thêm một khối lượng vừa phải để nối kết khép kín vòng Thành. Phía đông và nam là đồi núi điệp trùng, đứng trên lũy thành có thể bao quát xung quanh từ khoảng cách xa.
Nguyên vật liệu xây đắp thành Lồi chủ yếu bằng đất đồi, đất đắp thêm, gạch và đá cuội. Kỹ thuật xây gạch theo kiểu mài chập liên kết thành khối vững chắc, không có mạch vữa như kỹ thuật xây dựng các công trình kiến trúc Champa.
Mặt cắt của thành được chia làm 3 tầng: Tầng thứ nhất từ bề mặt của thành xuống 1,8-2 m bằng đất nện chặt; tầng thứ 2 dày 0,5-1 m được đắp bằng gạch, đá cuội xen lẫn và tầng thứ 3 cách bề mặt 2,5-3 m dày 1,8-2 m được đắp bằng đất nện chặt.
Nguyên vật liệu xây đắp Thành Lồi chủ yếu bằng đất đồi, đất đắp thêm, gạch và đá cuội. Kỹ thuật xây gạch theo kiểu mài chập liên kết thành khối vững chắc, không có mạch vữa tựa kỹ thuật xây dựng các công trình kiến trúc Champa cổ khác.
Bản vẽ về vị trí thành Lồi của Nguyễn Văn Quảng |
Cạnh chân tòa thành Lồi là vô số mồ mả của người dân |
Theo thời gian, cùng với sự tác động của chiến tranh, thời tiết và con người, thành Lồi dần trở nên hoang tàn và không còn giữ được hình dạng ban đầu của một tòa thành.
Hiện nay, nếu không có sự tìm hiểu, chuẩn bị thông tin từ trước, khi đến thăm thành Lồi, nhiều người chắc hẳn khó nhận diện ra đó là một di tích lịch sử cấp quốc gia.
Một đoạn thành được đắp bằng đất bị phủ kín bởi cây dại, cỏ tranh, lau lách. Ảnh: Quang Phúc |
Dọc các bờ thành cổ hoang phế là các lùm cây dại, dây leo, cây dứa dại phủ bám; lối dẫn vào bờ thành âm u, rậm rạp cây dại. Cạnh di tích thành Lồi là vô số mồ mả của người dân. Các khu đất trống cạnh di tích thành cổ là những mảng rừng keo tràm...
Giờ đây thành Lồi chỉ có thể nhìn thấy rõ nhất qua những gò đất được đắp cao, mang dáng dấp của một tòa thành xưa.
Tháng 12/2014, thành Lồi được Bộ VH,TT&DL công nhận là di tích cấp quốc gia cần được bảo vệ.
Di tích thành Lồi hiện do Bảo tàng Lịch sử TT-Huế quản lý. Ảnh tư liệu Bảo tàng |
Hiện chỉ còn đoạn thành phía nam của thành Lồi là còn lưu dấu tích tương đối rõ ràng. Bảo tàng Lịch sử tỉnh TT-Huế - đơn vị quản lý di tích cấp quốc gia này - đã khoanh vùng bảo vệ di tích trên tổng diện tích 18.126,4 m2.
Trong đó khu vực khoanh vùng 1 bảo vệ di tích có diện tích 12.085,3 m2, khu vực 2 có diện tích 6.041,1 m2.