Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long"

0:00 / 0:00
0:00
TPO - Vào hồi 8h30' sáng nay, 27/3/2024, tại thành phố Cần Thơ, Báo Tiền Phong phối hợp với Trường Đại học Cần Thơ tổ chức “Hội thảo Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long”.

Hội thảo có sự tham gia của Ông Nguyễn Ngọc Hè - Phó Chủ tịch UBND TP. Cần Thơ; Ông Lê Ngọc Quyền – Giám đốc Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Nam Bộ (Bộ TN&MT); Ông Trần Bá Hoằng - Viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam (Bộ NN&PTNT); đại diện 7 địa phương chịu hạn, mặn nghiêm trọng là các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Cà Mau, Kiên Giang. Đặc biệt Hội thảo có sự tham gia của các chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực tài nguyên nước và biến đổi khí hậu cũng như các doanh nghiệp cung cấp nước sạch tại ĐBSCL...

Hội thảo được trực tiếp và trực tuyến trên Báo điện tử Tiền Phong (tienphong.vn); Kênh Youtube và Fanpage Báo Tiền Phong.

Hội thảo Cần Thơ. 27.03.2024

Nhấn F5 để cập nhật nội dung mới nhất

26/03/2024 22:24

27/03/2024 08:56

Hạn hán, xâm nhập mặn là vấn đề nóng và cấp thiết tại khu vực ĐBSCL

Phát biểu khai mạc Hội thảo, Nhà báo Lê Xuân Sơn - Tổng Biên tập báo Tiền Phong cho biết: Mùa khô năm nay, hạn hán, xâm nhập mặn là vấn đề nóng và cấp thiết tại khu vực ĐBSCL, Trước tình trạng hạn, mặn nghiêm trọng ở ĐBSCL, mới đây, Tiền Phong đã triển khai loạt bài phóng sự “Miền Tây quay quắt giữa hạn, mặn”- phản ánh những tác động nghiêm trọng của hạn, mặn đến đời sống và sản xuất của người dân.

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 3

Nhà báo Lê Xuân Sơn - Tổng Biên tập báo Tiền Phong

Theo số liệu của Đài Khí tượng Thuỷ văn khu vực Nam Bộ, xâm nhập mặn mùa khô năm 2023 - 2024 đến sớm và sâu hơn trung bình nhiều năm. Đợt xâm nhập mặn xuất hiện từ ngày 8- 13/3 với ranh mặn 4‰ lấn sâu vào các dòng sông từ 40-66 km, có nơi sâu hơn, riêng tại Bến Tre có nơi xâm nhập mặn còn sâu hơn ranh mặn sâu nhất năm 2016 – năm hạn mặn kỷ lục đã xảy ra ở ĐBSCL.

Nhìn rộng hơn, chỉ trong một thập kỷ qua, khu vực ĐBSCL đã trải qua 3 mùa khô có mức độ hạn, mặn rất nghiêm trọng là các năm 2025-2016, 2019-2020 và 2023-2024. Theo nhận định của các chuyên gia, chúng ta có thể phải đối mặt với nhiều mùa hạn mặn khốc liệt như năm nay hoặc hơn thế nữa trong tương lai.

Mới đây, các nhà khoa học của Viện Khoa học Tài nguyên nước tiến hành nghiên cứu, lập bản đồ thiệt hại do xâm nhập mặn gây ra tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Kết quả nghiên cứu cho thấy, với kịch bản hiện trạng, tổng mức thiệt hại do xâm nhập mặn ở khu vực này khoảng 70.168 tỷ đồng. Đây là thiệt hại gây ra với hoạt động sản xuất gồm cây ăn quả, hoa màu, lúa và thủy sản.

Các nhà khoa học cũng xây dựng kịch bản thiệt hại do xâm nhập mặn tại đồng bằng sông Cửu Long ở các năm 2030, năm 2040 và năm 2050 với mức thiệt hại lần lượt là 72.385 tỷ đồng, 73.530 tỷ đồng và 76.485 tỷ đồng.

Nghị quyết 120 của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long nhấn mạnh quan điểm thuận thiên. Trong đó chỉ ra, việc phát triển vùng ĐBSCL phải tôn trọng quy luật tự nhiên, phù hợp với điều kiện thực tế, tránh can thiệp thô bạo vào tự nhiên; chọn mô hình thích ứng theo tự nhiên, thân thiện với môi trường và phát triển bền vững với phương châm chủ động sống chung với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn; nghiên cứu, xây dựng các kịch bản và có giải pháp ứng phó hiệu quả với thiên tai như bão, lũ, hạn hán và xâm nhập mặn, với các tình huống bất lợi nhất do biến đổi khí hậu và phát triển thượng nguồn sông Mê Kông.

Trước tình trạng xâm nhập mặn nghiêm trọng, chúng tôi tiếp tục tổ chức Hội thảo Sống chung với hạn, mặn vùng ĐBSCL. Ý tưởng này được sự ủng hộ rộng rãi của các cấp, từ trung ương địa phương, nhà nghiên cứu, chuyên gia, hiệp hội, chúng tôi trân trọng cảm ơn. Chúng tôi mong muốn Hội thảo sẽ là diễn đàn để đại diện các cơ quan chức năng, các địa phương, chuyên gia và doanh nghiệp có mặt ở đây cùng thảo luận các giải pháp giúp ĐBSCL thích ứng với hạn, mặn. Sau Hội thảo này, các ý kiến của quý vị sẽ được chúng tôi tập hợp thành tài liệu để gửi đến các cơ quan chức năng, quản lý có thể nghiên cứu thành giải pháp, chính sách để góp phàn giúp ĐBSCL thích ứng với hạn mặn gây ra.

27/03/2024 09:01

Tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai ngày càng cực đoan

Ông Nguyễn Ngọc Hè, Phó Chủ tịch UBND TP. Cần Thơ cho biết: Do vị trí địa lý của TP. Cần Thơ nên điều kiện về nguồn nước tương đối thuận lợi hơn một số tỉnh trong vùng. Tuy nhiên, trước tác động, ảnh hưởng ngày càng rõ nét của biến đổi khí hậu, tác động của thiên tai, cả nhân tai, thành phố luôn cảnh giác cao độ, không chủ quan, lơ là trong việc chủ động ứng phó và thích ứng với tình hình hạn mặn đã và đang diễn ra khắp ĐBSCL.

Theo ông Hè, thành phố có vị trí cách xa biển Đông khoảng 80km. Hiện nay, hướng xâm nhập mặn chủ yếu chỉ còn theo hướng sông Hậu (do thủy triều đẩy mặn từ biển vào dọc theo sông Hậu). Địa bàn có thể bị ảnh hưởng trực tiếp là quận Cái Răng.

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 4

Ông Nguyễn Ngọc Hè, Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ

Trong khoảng 15 năm trở lại đây, TP. Cần Thơ ghi nhận có 2 đợt xâm nhập mặn theo đường sông Hậu vào đến cảng Cái Cui thuộc phường Tân Phú, quận Cái Răng (giáp ranh tỉnh Hậu Giang) vào năm 2016 và 2020. “Điều này cho thấy tác động của biến đổi khí hậu, tác động của thiên tai cả nhân tai (như vận hành thủy điện, hồ chứa ở thượng nguồn…), ngày càng cực đoan, gay gắt, không theo quy luật và số lần xâm nhập mặn ngày càng nhiều hơn so với thời gian trước đây”, ông Hè nói.

Để chủ động phòng chống và thích ứng với hạn mặn, thiếu nước, xâm nhập mặn, TP. Cần Thơ đã làm tốt công tác dự báo, truyền thông để thông tin kịp thời, chính xác, đầy đủ đến chính quyền các cấp và người dân về nguy cơ hạn hán, xâm nhập mặn.

Bên cạnh đó, thành phố cũng tổ chức vận hành các công trình thủy lợi hợp lý; xây dựng các kịch bản về ứng phó và thích ứng với hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn phù hợp với tình hình thực tế của từng quận, huyện…

“Hội thảo hôm nay có ý nghĩa rất thời sự. Tôi hy vọng và tin tưởng rằng kết quả hội thảo sẽ giúp có thêm nhiều giải pháp kịp thời, đúng mức, phù hợp nhất với từng địa phương vùng ĐBSCL, thích ứng với biến đổi khí hậu…” – Phó Chủ tịch UBND TP Cần Thơ phát biểu.

27/03/2024 09:08

Biến đổi khí hậu - nước biển dâng đã gây ra nhiều tác động tiêu cực đối với môi trường

Phát biểu đề dẫn tại hội thảo, PGS.TS Nguyễn Hiếu Trung, Phó Hiệu trưởng Đại học Cần Thơ cho biết: Biến đổi khí hậu - nước biển dâng đã gây ra nhiều tác động tiêu cực đối với môi trường sinh thái và sinh kế của cộng đồng dân cư vùng ĐBSCL.

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 5

PGS.TS Nguyễn Hiếu Trung, Phó Hiệu trưởng Đại học Cần Thơ

Trong những năm gần đây, vấn đề hạn mặn thường diễn biến khá phức tạp, xâm nhập sâu vào các hệ thống kênh rạch, với độ mặn lớn nhất thường xuất hiện chủ yếu vào tháng 4 hoặc tháng 5 do ảnh hưởng của thủy triều ở biển Đông và biển Tây cũng như tình trạng suy giảm của nguồn nước đến từ thượng nguồn. Lưu lượng dòng chảy từ thượng nguồn sông Mê Kông đổ về ít là một trong những yếu tố rất được quan tâm, không chỉ riêng ở Việt Nam mà của các nước trong khu vực và quốc tế. Bên cạnh đó, do biến đổi khí hậu nên lượng mưa giảm, lượng nước bị bốc hơi cao cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hạn hán, xâm nhập mặn.

Ngoài một số yếu tố tự nhiên nêu trên thì yếu tố con người cũng góp phần không nhỏ gây ra xâm nhập mặn. Việc quản lý và khai thác nguồn tài nguyên nước dưới đất chưa phù hợp, dẫn đến tình trạng sụt lún đồng bằng cũng như tình trạng khai thác cát lòng sông dẫn đến tình trạng hạ thấp đáy sông đã tạo điều kiện thuận lợi cho cho mặn xâm nhập sâu trong nội đồng. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất không phù hợp cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc đưa nước mặn vào sâu trong nội đồng.

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 6

Cùng điều hành hội thảo, Nhà báo Phùng Công Sưởng - Phó Tổng biên tập Báo Tiền Phong nêu ra nhiều câu hỏi với giới chuyên môn, nhà quản lý

Theo PGS.TS Nguyễn Hiếu Trung, mặc dù đã có một số giải pháp được áp dụng để kiểm soát xâm nhập mặn ở địa phương như: Hệ thống thủy nông Quản Lộ - Phụng Hiệp; hệ thống thủy lợi ngọt hóa và ngăn mặn ở tỉnh Bến Tre; cống đập Ba Lai, hệ thống đê biển cho toàn bộ hệ thống ven biển ĐBSCL... Tuy nhiên, tình hình xâm nhập mặn vẫn đang diễn ra với cường độ và tính phức tạp ngày càng tăng cao và khó lường.

Phát biểu đề dẫn tại hội thảo, PGS.TS Nguyễn Hiếu Trung, Phó Hiệu trưởng Đại học Cần Thơ cho biết: Biến đổi khí hậu - nước biển dâng đã gây ra nhiều tác động tiêu cực đối với môi trường sinh thái và sinh kế của cộng đồng dân cư vùng ĐBSCL.

Trong những năm gần đây, vấn đề hạn mặn thường diễn biến khá phức tạp, xâm nhập sâu vào các hệ thống kênh rạch, với độ mặn lớn nhất thường xuất hiện chủ yếu vào tháng 4 hoặc tháng 5 do ảnh hưởng của thủy triều ở biển Đông và biển Tây cũng như tình trạng suy giảm của nguồn nước đến từ thượng nguồn. Lưu lượng dòng chảy từ thượng nguồn sông Mê Kông đổ về ít là một trong những yếu tố rất được quan tâm, không chỉ riêng ở Việt Nam mà của các nước trong khu vực và quốc tế. Bên cạnh đó, do biến đổi khí hậu nên lượng mưa giảm, lượng nước bị bốc hơi cao cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hạn hán, xâm nhập mặn.

Ngoài một số yếu tố tự nhiên nêu trên thì yếu tố con người cũng góp phần không nhỏ gây ra xâm nhập mặn. Việc quản lý và khai thác nguồn tài nguyên nước dưới đất chưa phù hợp, dẫn đến tình trạng sụt lún đồng bằng cũng như tình trạng khai thác cát lòng sông dẫn đến tình trạng hạ thấp đáy sông đã tạo điều kiện thuận lợi cho cho mặn xâm nhập sâu trong nội đồng. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất không phù hợp cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc đưa nước mặn vào sâu trong nội đồng.

Theo PGS.TS Nguyễn Hiếu Trung, mặc dù đã có một số giải pháp được áp dụng để kiểm soát xâm nhập mặn ở địa phương như: Hệ thống thủy nông Quản Lộ - Phụng Hiệp; hệ thống thủy lợi ngọt hóa và ngăn mặn ở tỉnh Bến Tre; cống đập Ba Lai, hệ thống đê biển cho toàn bộ hệ thống ven biển ĐBSCL... Tuy nhiên, tình hình xâm nhập mặn vẫn đang diễn ra với cường độ và tính phức tạp ngày càng tăng cao và khó lường.

27/03/2024 09:24

Hiện trạng hạn hán, mặn xâm nhập ở khu vực ĐBSCL đầu năm 2024

Hiện trạng hạn, mặn xâm nhập ở khu vực ĐBSCL đầu năm 2024

27/03/2024 09:33

Trong 10 năm gần đây, tình hình hạn mặn ở ĐBSCL diễn ra khốc liệt

Ông Lê Ngọc Quyền – Giám đốc Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Nam Bộ (Tổng cục Khí tượng, Bộ TN&MT) cho biết, trong 10 năm gần đây, tình hình hạn mặn ở ĐBSCL diễn ra khốc liệt. Từ nửa cuối tháng 12/2023 tới nay, khu vực ĐBSCL gần như không mưa, một số nơi có mưa nhưng lượng rất thấp. Tổng lượng mưa thấp hơn trung bình nhiều năm từ 62-94%.

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 7

Ông Lê Ngọc Quyền – Giám đốc Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Nam Bộ (Tổng cục Khí tượng, Bộ TN&MT)

Theo ông Quyền, xâm nhập mặn năm 2024 diễn ra sớm, giữa tháng 11 đã xuất hiện, đi sâu vào nội đồng. HIện, các tỉnh Sóc Trăng, Long An, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau… mặn diễn ra phổ biến cao hơn so với trung bình nhiều năm (chỉ thấp hơn mùa khô năm 2016, 2020).

Để giảm thiểu thiệt hại do tình trạng mùa khô năm 2024 khả năng ít mưa trái mùa, nguồn nước trên sông Mê Kông chảy về ĐBSCL thấp, cùng nhiều nguyên nhân khác, các bản tin cảnh báo, dự báo thường xuyên được phát đi; tham mưu cho địa phương bố trí mùa vụ cây trồng để tránh thiệt hại do vấn đề thiếu nước sinh hoạt, sản xuất. Cuối tháng 3/2024, các tỉnh ĐBSCL đang chuẩn bị kết thúc thu hoạch sẽ tiến hành xuống giống vụ lúa Hè thu 2024.

Trước diễn biến hạn hán và xâm nhập mặn các tháng còn lại của mùa khô 2024 vẫn còn khá gay gắt và phức tạp, đợt triều ngày 23-24 (15/2 âm lịch) đã đẩy mặn vào sâu nên thời gian giảm mặn sẽ diễn ra dài ngày. Bên cạnh đó, các kênh rạch một số tỉnh ĐBSCL đang khô cạn, tình trạng sụt lún vẫn còn tiếp tục tại một số tỉnh nam sông Hậu. Điều này có thể ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất lúa vụ mới. Ông Quyền dự báo, ngày bắt đầu mùa mưa tại nam bộ khả năng sẽ đến muộn hơn so với trung bình nhiều năm (khoảng từ tuần giữa tháng 5), nắng nóng vẫn tiếp diễn, nền nhiệt cao.

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 8

Hội thảo có sự tham gia của nhiều nhà khoa học và các cơ quan quản lý

“Nắng nóng vẫn gay gắt, lượng nước bốc hơi mạnh, nguồn nước từ thượng nguồn thấp nên mặn vẫn tiếp tục xảy ra tại các tỉnh ĐBSCL. Từ nay đến cuối tháng 5, ĐBSCL còn diễn ra các đợt xâm nhập mặn tăng cao”, Giám đốc Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Nam bộ nhận định.

Do đó, việc theo dõi, dự báo để có giải pháp phối hợp ứng phó với hạn, mặn ĐBSCL cần được quan tâm, để các tỉnh thành chủ động xây dựng kế hoạch sản xuất, phát triển kinh tế và an sinh xã hội trong toàn khu vực. “Tiếp tục tích cực ứng dụng công nghệ mới vào nghiệp vụ dự báo, cảnh báo, truyền tin để tăng tính hiệu quả”, ông Quyền cho hay.


27/03/2024 09:50

ĐBSCL thường xuyên bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn và hạn hán

PGS.TS Nguyễn Thị Hồng Điệp - Bộ môn Tài nguyên đất đai, Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên, Trường Đại học Cần Thơ trao đổi tại hội thảo:

ĐBSCL được hình thành từ phù sa bồi lắng và trầm tích qua hàng triệu năm của sông Mê Kông, thích hợp với nhiều loại hình canh tác nông nghiệp. Đây cũng là khu vực đóng góp nhiều sản lượng về nông nghiệp, khu vực chiếm 12% diện tích nhưng cung cấp hơn 50% lượng gạo cả nước, 75% thuỷ sản và 48% ngũ cốc.

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 9

PGS.TS Nguyễn Thị Hồng Điệp - Bộ môn Tài nguyên đất đai, Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên, Trường Đại học Cần Thơ

Tuy nhiên, khu vực ĐBSCL, đặc biệt là 8 tỉnh ven biển thường xuyên bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn và hạn. Năm 2015 - 2016 và 2019-2020 là hai năm xâm nhập mặn rất nghiêm trọng của vùng. Năm 2016, xâm nhập mặn tiến sâu vào đất liền tới 90-10km, với 10/13 tỉnh ĐBSCL công bố thiệt hại, tổng diện tích lúa thiệt hại khoảng 180.000ha, khoảng 194.000 hộ gia đình và 900.000 người. Năm 2019-2020, nhờ chủ động ứng phó, diện tích lúa thiệt hại khoảng 14%, cây trái 85%, 24% người dân ven biển bị ảnh hưởng. Tình hình xâm nhập mặn và hạn hán ảnh hưởng rất nghiều đến hiện trạng canh tác và người dân sống ven biển, tình hình hạn hán cũng như sụt lún khu ven biển do khai thác quá mức nước ngầm khu vực ven biển, đặc biệt là Sóc Trăng, Bạc Liêu.

Để thích ứng với hạn mặn, chúng tôi có đề xuất hướng dẫn người dân trữ nước ngọt để phục vụ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt trong gia đình. Hỗ trợ, chuyển giao kỹ thuật cho người dân canh tác phù hợp với khả năng đáp ứng nguồn nước của từng vùng sinh thái. Chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, vật nuôi, cây trồng phù hợp với từng vùng. Nghiên cứu, lai tạo giống cây mới chịu hạn, chịu mặn, mang lại giá trị kinh tế cao, sản xuất tập trung để phù hợp với hiện trạng canh tác. Bên cạnh đó, tăng cường quan trắc, giám sát, nâng cao năng lực dự báo mặn. Sửa chữa các công trình bị hư hỏng, xuống cấp, nạo vét khu vực cửa cống lấy nước, hệ thống kênh mương, đắp đập ngăn mặn để tận dụng tối đa nguồn nước, giảm thất thoát, lãng phí. Cuối cùng là việc trữ nước ngọt ở ven biển, có thể xây dựng hồ chứa nước ngọt như Sóc Trăng từng làm để phục vụ đời sống sinh hoạt và sản xuất.

27/03/2024 10:30

Vùng ĐBSCL sống trên nước nhưng lại thiếu nước

Ông Trần Anh Tuấn – Phó Chủ tịch Hội Cấp thoát nước Việt Nam chia sẻ về vấn đề đảm bảo cung ứng nước sạch cho người dân vùng hạn mặn:

ĐBSCL có hệ thống sông Cửu Long, sông Vàm Cỏ, sông Cái Lớn - Cái Bé… Lượng nước đổ về qua sông Tiền, sông Hậu. “Nghịch lý là vùng ĐBSCL sống trên nước nhưng lại thiếu nước. Điều này do hạn, mặn và phèn gây ra”, ông Tuấn nói và cho biết hiện nay xâm nhập mặn đã diễn ra nhiều nơi trong vùng ĐBSCL. Hơn nữa, mặn dâng lên nhưng không xác định là bao lâu, độ mặn thì khác nhau và ngày càng tăng lên, lượng muối trong nước có nơi không thể xử lý nổi. Thậm chí có người ở Cà Mau từng nói “nấu canh khỏi bỏ muối vì mặn quá rồi”.

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 10

Ông Trần Anh Tuấn – Phó Chủ tịch Hội Cấp thoát nước Việt Nam

Về các dự án cấp nước cho vùng ĐBSCL, ông Tuấn cho biết đã có 4 quyết định được Thủ tướng phê duyệt. Trong đó, nổi lên là đề xuất xây dựng hệ thống những nhà máy nước liên thông để cấp nước cho các nhà máy nước. Theo tính toán, nhu cầu đến năm 2030 cần 2,5-2,7 triệu m3/ngày đêm, đến năm 2040 cần 3-3,2 triệu m3/ngày đêm.

Theo ông Tuấn, với hàng chục ngàn giếng đóng trong vùng, nước mặn theo đó ngấm xuống nước ngầm, nên nước ngầm không còn là của để dành nữa. Do vậy, nguồn nước mặt được tính toán cho cả dân cư đô thị, công nghiệp, sinh hoạt và sản xuất. Theo quy hoạch cấp nước, vùng ĐBSCL chia 3 vùng gồm Bắc sông Tiền, vùng giữa và vùng Tây Nam sông Hậu. Ý tưởng xây dựng 5 nhà máy nước hình thành, Ngân hàng Thế giới (WB) đã sang nghiên cứu, nhưng nếu xây 1 nhà máy cho cả vùng lớn thì khó, do vậy phát huy các nhà máy, vì các nhà máy cần nguồn nước lấy về để xử lý.

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 11

Nhà báo Phùng Công Sưởng - Phó Tổng biên tập Báo Tiền Phong đặt ra nhiều câu hỏi về các biện pháp chống hạn hạn, nhiễm mặn để đảm bảo đời sống cho người dân trong khu vực

Tuy nhiên, câu hỏi khó là mặn bao lâu, độ mặn thế nào, có thể tính bao lâu để đảm bảo nước cung cấp về cho các nhà máy không bị ảnh hưởng. Trong khi đó, cần kết hợp nước cho nông nghiệp, cây trái, như cây Sầu Riêng chỉ cần mặn 1g/l là chết, nên có vùng mua nước 70-80 nghìn đồng/m3 để tưới cho cây... Do vậy, nguồn nước cung cấp cho các nhà máy sinh hoạt cần kết hợp cho sản xuất. Nên cần nghiên cứu một hệ thống cấp nước liên thông (có thể nước thô, nước sạch) cho cả vùng Bắc sông Tiền và vùng giữa.

Thời gian tới, khu vực sẽ có 45% dân số trong đô thị vào năm 2030, có ít nhất 7-8 triệu dân trong đô thị. Nên dự án cấp nước liên vùng là vấn đề an sinh xã hội. Giải pháp đã có, nhưng sao vẫn hạn mặn, thiếu nước, điều đó là phụ thuộc vào trách nhiệm của chính quyền. Giờ biến đổi khí hậu, thì hạn mặn không chỉ 1-2 tuần, mà là 1-2 tháng, nên cần giải pháp kết hợp, đào hồ, nhưng ĐBSCL giờ đất nhiều vùng đã mặn, phèn, nên vừa phải tính tới. Ngoài ô nhiễm mặn, còn ô nhiễm thải, nên cần tính toán tất cả vấn đề. “Quy hoạch ĐBSCL cũng đề cập, giải pháp đã có nhưng sao vẫn cứ kêu hạn mặn. Cần có nhiều giải pháp để cho cả vùng chứ không riêng cho tỉnh nào. Một cảnh báo hiện nay là các nước thượng nguồn chặn dòng, văn hóa sông nước của ĐBSCL thay đổi dần rồi” – ông Tuấn cảnh báo. Mong hội thảo này, sẽ đưa được vấn đề nước cho sinh hoạt, phát triển công nghiệp, sự vào cuộc chính quyền cùng chúng ta, vào 1 hệ thống, biến đổi khí hậu không thể mình tự lo cho mình, mà phải liên kết, sự điều hành của cấp trung ương và các địa phương. Nên mong giải quyết được an sinh, phát triển, nông nghiệp, kinh tế, sinh hoạt.

27/03/2024 10:44

Tỉnh Cà Mau vừa quyết định chi 10 tỷ đồng cho ba huyện thiếu nước nghiêm trọng

Nhà báo Phùng Công Sưởng - Phó Tổng biên tập báo Tiền Phong nêu vấn đề: Năm nay, hạn, mặn được đánh giá là khốc liệt gần tương đương với mùa khô năm 2016, thậm chí một số vùng còn sạt lở, sụt lún nghiêm trọng như Cà Mau. Do đó, rất mong được lắng nghe các chia sẻ của các địa phương về thực tế tình hình hạn, mặn và giải pháp ứng phó đang được áp dụng tại địa phương mình, đặc biệt với Hậu Giang, Bến Tre, Cà Mau?

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 12

Nhà báo Phùng Công Sưởng - Phó Tổng biên tập báo Tiền Phong

Về vấn đề này, ông Đỗ Minh Điền, Chi cục phó Chi cục Thuỷ lợi, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Cà Mau cho biết: Cà Mau là tỉnh có 3 bên giáp biển, phía Bắc giáp Bạc Liêu, Kiên Giang. Chúng tôi là tỉnh duy nhất trong 13 tỉnh ĐBSCL không có nguồn nước ngọt bổ sung, hạn hán khốc liệt như các năm qua và năm nay càng ảnh hưởng rất lớn với Cà Mau như: Thiếu nước sinh hoạt, sản xuất, sụt lún, khó khăn trong vận chuyển hàng hoá. Vựa lúa vừa rồi, sau thu hoạch, khi các dòng kênh đã cạn, lưu thông thuỷ không được, giá lúa của bà con giảm 1-2 nghìn đồng/kg do chi phí vận chuyển tăng lên.

Tại vùng Nam Cà Mau, khi hạn hán kéo dài thì độ mặn tăng cao trên các dòng kênh, làm giảm năng suất nông nghiệp, đặc biệt như nuôi tôm. Tính đến 25/3, sụt lún ở Cà Mau xảy ra tại 131 tuyến kênh, 569 điểm bị sụt lún.

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 13

Ông Đỗ Minh Điền, Chi cục phó Chi cục Thuỷ lợi, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Cà Mau

Cà Mau có đưa ra giải pháp trước mắt là tăng cường, khuyến cáo người dân sử dụng tiết kiệm nước, thường xuyên theo dõi mực nước trong kênh, khi thấp đến mức báo động thì báo với chính quyền địa phương để có giải pháp xử lý. Đồng thời, thực hiện giảm trọng tải xe từ 8 tấn còn 5 tấn trên một số đường trên bờ kênh, để tránh sạt lở.

Chúng tôi cũng đề xuất các giải pháp cấp nước sinh hoạt, đầu tư các công trình hỗ trợ trữ nước. Mới đây, UBND tỉnh đã quyết định chi 10 tỷ đồng cho 3 huyện thiếu nước nghiêm trọng. Anh em đang triển khai quyết liệt để hỗ trợ bà con vùng thiếu nước với khoảng 13.900 hộ dân thiếu nước. Đặc biệt tại địa phương có 2620 hộ dân không được tiếp cận nguồn nước phải mua nước sinh hoạt 40-50 nghìn đồng một khối nước. Đây là những hộ rất khó khăn.

Chúng tôi cũng đề xuất hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi, trong đó đề xuất trung ương hỗ trợ khoảng 197 tỷ đồng thực hiện 5 ô thuỷ lợi để trữ nước trong mùa khô; hỗ trợ kinh phí từ dự án nước sạch nông thôn khoảng 241 tỷ đồng. Ngoài ra, Cà Mau là địa phương chưa được hưởng lợi ích từ dự án Cái Lớn, Cái Bé nên tỉnh đề xuất hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi Cái Lớn, Cái Bé để hy vọng nguồn nước về được Cà Mau để giảm bớt khó khăn cho bà con.

Ông Bùi Văn Thắm, Phó Giám đốc Sở NN&PT tỉnh Bến Tre cho biết thêm: Bến Tre là tỉnh cuối nguồn của dòng cửu Long, trong đó có 4 nhánh sông và 3 tuyến cù lao. Hằng năm, tỉnh chịu rất nhiều ảnh hưởng của hạn mặn, sạt lở nên người dân của tỉnh gần như thích ứng biến đổi khí hậu. Theo dự báo năm nay, tỉnh nhận thấy rằng số liệu thực tế với số liệu quan trắc của các Đài khí tượng thủy văn khá tương đồng và chính xác.

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 14

Ông Bùi Văn Thắm, Phó Giám đốc Sở NN&PT tỉnh Bến Tre

Bến Tre có địa lý ba vùng sinh thái rõ, đó là mặn – ngọt – lợ. Đối với hệ thống thủy lợi, tỉnh còn một số hệ thống cống lớn chưa được đầu tư nên bị ảnh hưởng của hạn mặn. Nếu không được đầu tư sớm, hằng năm Bến Tre vẫn phải chịu hạn mặn như các năm vừa qua.

Về giải pháp chủ động, ngành nông nghiệp tỉnh Bến Tre đề ra 2 giải pháp, trước tiên là bảo vệ nguồn nước cấp cho nước sinh hoạt của nhà máy nước TP. Bến Tre và các khu công nghiệp. Song song đó, phải bảo vệ vùng cây ăn trái có giá trị kinh tế cao. Hiện, tỉnh cơ bản đảm bảo được các phương án dự phòng đưa ra, nhưng nếu thời gian mưa trễ, nắng kéo dài thì sức chịu đựng của các dòng sông và nguồn nước dự trữ trong dân gặp khó khăn.

“Kinh nghiệm của các năm qua, ngành nông nghiệp tỉnh cho rằng, công tác chuẩn bị, công tác dự báo chính xác, kịp thời, do đó lãnh đạo các địa phương sẽ chủ động tuyên truyền người dân thì việc ứng phó, công tác chuẩn bị được tốt hơn sẽ hạn chế thiệt hại, giảm đáng kể”, ông Thắm nói. Theo ông Thắm, Bến Tre được Bộ quy hoạch hệ thống thủy lợi Nam – Bắc khép kín. Phần Bắc Bến Tre cơ bản được đầu tư hoàn thiện, còn phần Nam Bến Tre nếu được đầu tư hệ thống thủy lợi cơ bản đảm bảo nguồn nước khi đó công tác phòng chống hạn măn sẽ đỡ vất vã hơn.

27/03/2024 10:48

Ông Ngô Minh Long – Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hậu Giang cho biết, Hậu Giang là tỉnh không biển nhưng có 3 thứ: Mặn, lợ, phèn. Năm 2016, độ mặn cao nhất tại Hậu Giang lên tới gần 19,7 gam/lít, ảnh hưởng đến hơn 6.000ha lúa, thiệt hại gần 40 tỷ đồng. Tháng 2/2024, hạn mặn xuất hiện nhánh sông Cái Côn (huyện Châu Thành), đo được 1,3 gam/lít, tăng 1,1 gam/lít so với nằm 2023.

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 15

Ông Ngô Minh Long – Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hậu Giang

Hậu Giang được hưởng lợi từ cống Cái Lớn, Cái Bé và cống Ninh Quới – Bạc Liêu nên kiểm soát được mặn. Trước hết, chúng tôi cập nhật liên tục thông tin cảnh báo và quán triệt, theo dõi thường xuyên và chuẩn bị nước sạch cho người dân như khoan 6 giếng dự phòng. Nếu độ mặn tăng đột biến, địa phương sẽ cung cấp nước này cho người dân để phục vụ sản xuất. Các hệ thống cống trên địa bàn tỉnh hiện nay có người trực đảm bảo 24/24; địa phương lập nhóm mạng xã hội để thông tin đo độ mặn thường xuyên.

Về giải pháp sinh kế, tỉnh kết hợp với ĐH Cần thơ tập trung 10 trạm quan trắc tự động; mở rộng vụ mùa khô. Về giải pháp công trình, trong năm, Bộ NN&PTNT đầu tư cho Hậu Giang công trình nạo vét kênh trục dẫn nước sông hậu về nhằm ngọt hóa Hậu Giang và Bạc Liêu, Cà Mau. Về tình hình sản xuất năm nay dự báo mặn nên địa phương đẩy lịch thời vụ sớm hơn 20 ngày để “né” mặn.

27/03/2024 11:06

Cần xem hạn mặn đã là thuộc tính của ĐBSCL

PGS.TS Nguyễn Hiếu Trung, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Cần Thơ đặt câu hỏi: Thời gian qua, Bộ NN&PTNT cùng các địa phương đã triển khai nhiều biện pháp để ngăn mặn, trữ ngọt, chúng tôi rất muốn nghe ý kiến từ Ông Trần Bá Hoằng - Viện trưởng Viện Khoa học thủy lợi miền Nam (Bộ NN&PTNT) về kết quả của các giải pháp mang lại trong việc hỗ trợ người dân sống chung với hạn mặn?

Ông Trần Bá Hoằng - Viện trưởng Viện Khoa học thủy lợi miền Nam (Bộ NN&PTNT): Hội thảo hôm nay rất thời sự đối với vùng ĐBSCL. Hiện, vùng ĐBSCL chịu tác động của 3 yếu tố chính, gồm nguồn nước thượng lưu sông Mê Kông, nước biển dâng – biến đổi khí hậu và tình hình nội tại do phát triển kinh tế xã hội. “Là vùng non trẻ nên chịu tác động rất lớn”, ông Hoằng nói.

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 16

Ông Trần Bá Hoằng - Viện trưởng Viện Khoa học thủy lợi miền Nam

Theo ông Hoằng, từ năm 2015 đến nay ĐBSCL trải qua 2 năm hạn mặn cực đoan là mùa khô 2015-2016, 2019-2020. Năm nay cũng là năm hạn mặn cao hơn trung bình nhiều năm. Dựa trên những dự báo sớm, dự báo chuyên ngành, Bộ NN&PTNT và các địa phương đã có những chỉ đạo điều hành sản xuất hợp lý. Riêng hai Thứ trưởng Bộ đã chủ trì hai cuộc hội nghị tại vùng ĐBSCL để chủ động triển khai các giải pháp cũng như thực hiện Công điện của Thủ tướng về ứng phó với hạn mặn.

Về giải pháp công trình, trong vùng đã được đầu tư những dự án thủy lợi lớn như Cái Lớn - Cái Bé mang lại hiệu quả cho vùng Hậu Giang, Kiên Giang; hay cống Nguyễn Tấn Thành ở Tiền Giang mặc dù chưa xong nhưng đã kịp thời kiểm soát, nhất là bảo vệ nhà máy nước Đồng Tâm Tiền Giang.

Theo ông Hoằng, những năm qua, những dự báo, đầu tư công trình, chỉ đạo quyết liệt của Bon NN&PTNT và các địa phương đã mang lại kết quả tốt, khi chủ động có dự báo sớm sẽ giảm rất nhiều tác động và thiệt hại.

Năm nay, với tinh thần vào cuộc sớm, mặc dù hạn mặn cao hơn trung bình nhiều năm, có thời điểm vào sâu hơn cả năm 2016, nhưng đến thời điểm này, thiệt hại chỉ xảy ra ở một số nơi do canh tác ngoài khuyến cáo. Còn toàn bộ diện tích 1,5 triệu ha lúa Đông Xuân đã thu hoạch phần lớn đạt năng suất tốt, hiện còn 78.000ha đang trổ, có nguy cơ ảnh hưởng khoảng 20.000ha.

“Cần xem hạn mặn đã là thuộc tính của ĐBSCL, xảy ra hằng năm, chỉ khác nhau là cao hay thấp. Cần quan tâm công tác dự báo, để chủ động. Cùng với đó là chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, giải pháp công trình hỗ trợ, phục vụ nhu cầu chuyển đổi, để không phải lo đi chống hạn mặn”, ông Hoằng đề xuất.

27/03/2024 11:34

Nhà báo Phùng Công Sưởng – Phó Tổng biên tập báo Tiền Phong: Theo các chuyên gia, việc cảnh báo sớm góp phần chủ động phòng tránh và giảm thiểu thiệt hại do hạn, mặn là yêu cầu tiên quyết, xin hỏi ông Lê Ngọc Quyền – Giám đốc Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Nam Bộ (Tổng cục Khí tượng, Bộ TN&MT) về giải pháp thúc đẩy cảnh báo sớm trong thời gian tới.

Ông Lê Ngọc Quyền – Giám đốc Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Nam Bộ (Tổng cục Khí tượng, Bộ TN&MT) cho biết: Thời gian vừa qua, công tác dự báo về tình hình hạn, mặn được đơn vị nâng cao rất nhiều. Bên cạnh đó, đơn vị ứng dụng nhiều công nghệ tiên tiến trên thế giới cũng như tự nghiên cứu để đáp ứng yêu cầu của người dân trong công tác phòng chống biến đổi khí hậu.

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 17

Theo ông Quyền, ngay từ tháng 9/2023, trước tình hình mưa lũ ở phía thượng nguồn, đơn vị đã theo dõi, cảnh báo sớm khu vực nào ở BĐSCL chịu tác động để cung cấp thông tin sớm nhất có thể để đến với người dân, chính quyền địa phương để có kế hoạch trong sản xuất. Nhờ đó, một số địa phương đã chủ động xuống giống sớm, né mặn, tích trữ nước.

“Năm nay là một năm mà người dân ĐBSCL trúng mùa, được giá, cho nên bản thân chúng tôi rất vui và đã đóng góp một phần quan trọng trong công tác dự báo, cảnh báo sớm để người dân chủ động”, ông Quyền nói và cho biết, sắp tới, đơn vị chủ động để nâng cao chất lượng dự báo thông qua các ứng dụng các công nghệ mới liên quan đến ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số để có được số liệu online kịp thời dự báo trước tình hình thiên tai

“Tại hội nghị chuyển đổi số Quốc gia 2023, chúng tôi là một trong 7 đơn vị ứng dụng công nghệ AI và các nghiệp vụ dự báo hiệu quả nhất. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ đầu tư để có sản phẩm tốt nhất cho việc phòng chống thiên tai”, ông Quyền nói.

27/03/2024 11:40

Quy hoạch cấp nước ĐBSCL có một số bất cập

PGS.TS Nguyễn Hiếu Trung - Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Cần Thơ: Để có cái nhìn toàn diện hơn thì chúng ta có thể có thêm ý kiến từ phía doanh nghiệp, những người trực tiếp tham gia vào việc hiện thực hoá các giải pháp cho vấn đề hạn mặn hiện nay. Tôi xin mời ông Lều Mạnh Huy - Phó Tổng giám đốc DNP Water có ý kiến phát biểu tại diễn đàn.

Ông Lều Mạnh Huy, Phó Tổng giám đốc DNP Water: Trước tiên DNP Water là một trong những đơn vị đầu tư tư nhân lớn nhất cả nước về xử lý và cung cấp nước sạch, chiếm khoảng 10% công suất cả nước, hoạt động trên 14 tỉnh thành.

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 18

ông Lều Mạnh Huy - Phó Tổng giám đốc DNP Water

Thời điểm xảy ra hạn mặn năm 2015-2016 và 2019-2020, xâm nhập mặn đã vượt qua cả vị trí khai thác của các nhà máy. Trước tiên để cứu mình, chúng tôi nghiên cứu quy hoạch cấp nước ĐBSCL và thấy một số bất cập.

Một là tổng mức đầu tư quá lớn (~146.000 tỷ đồng) từ đó cấu thành chi phí giá nước sạch đầu ra nằm trong khoảng 25.000 – 40.000 đồng/m3, quá cao so với mặt bằng giá nước chung tại khu vực cùng thời điểm (khoảng 10.000 đồng/m3)

Hai là, toàn bộ các nhà máy hiện hữu của công ty cấp nước phải dừng hoạt động dẫn đến lãng phí tài sản xã hội, xáo trộn hệ thống, ảnh hưởng đến công ăn việc làm của người lao động, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Trong quá trình nghiên cứu để tìm các giải pháp khả thi, chúng tôi suy nghĩ hiện nay các nhà máy nước cần cái gì thì cấp cấp cái đấy. Và tháng 3/2020, chúng tôi chính thức gửi UBND các tỉnh Tiền Giang và Long An báo cáo đề xuất ý tưởng dự án dẫn nước thô từ thượng nguồn sông Tiền về thay thế cho các nguồn nước bị nhiễm mặn tại các nhà máy nước tại hạ nguồn, sau khi ý tưởng dự án được đề xuất UBND tỉnh Bến Tre đề nghị cùng với UBND các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre đồng kiến nghị Thủ tướng chính phủ cho phép triển khai thực hiện dự án và nhập Bến Tre vào cùng 1 vùng cấp nước với 2 tỉnh còn lại.

Sau đó dự án “Trạm bơm nước thô Cái Bè và hệ thống tuyến ống truyền tải” chính thức được đề xuất tới Thủ tướng Chính Phủ, từ đề xuất của 3 tỉnh, sau khi được báo cáo thông qua tại Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ NN&PTNT.

Ngày 2/3/2021, giải pháp dẫn nước thô của dự án đã được Thủ tướng chính phủ cho phép điều chỉnh tại quyết định số 287/QĐ-TTg. Cũng trong cùng thời điểm đó, chúng tôi cũng gửi đề xuất tới UBND 3 tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng ý tưởng dẫn nước từ hệ thống cống thuỷ lợi Cái Lớn, Nhà máy đặt tại khu vực Ninh Quới để cấp nước sạch cho 3 tỉnh khu vực bán đảo Cà Mau.

Đến thời điểm hiện tại, dự án dẫn nước thô từ thượng nguồn sông Tiền để cấp cho 3 tỉnh Tiền Giang, Long An, Bến Tre đã được cấp giấy phép đầu tư, đã cơ bản hoàn thành công tác khảo sát, thiết kế, công tác chuẩn bị đầu tư và chuẩn bị trình Bộ xây dựng thẩm định. Giá bán nước thô dự án đề xuất khởi điểm chỉ từ 3.000 đồng/m3, các địa phương sẽ có nguồn nước an toàn quanh năm mà chỉ cần điều chỉnh giá bán lẻ nước sạch từ 1.500-2.000 đồng/m3, phù hợp vói mặt bằng chung, đây là giải páhp được các tỉnh đánh giá cao, thủ tướng đã ký quyết định phê duyệt và chúng tôi đang triển khai.

Quá trình triển khai, thời điểm cuối năm 2023, khi đến giai đoạn ký hợp đồng với các đơn vị cấp nước để đảm bảo điều kiện bố trí tín dụng để khởi công dự án thì gặp vướng mắc liên quan đến việc quy định pháp lý về phương pháp tính giá nước thôi vì toàn bộ quy định pháp lý hiện hành liên quan đều là cho nước sạch.

Để giải quyết, tháo gỡ vấn đề này, dự án rất cần sự động hành, sự vào cuộc quyết liệu của chính quyền địa phương để kiến nghị lên các bộ ngành và cần thiết thì kiến nghị lên thủ tướng chính phủ.

Trong hội thảo hôm nay, chúng tôi nhận thấy nếu có sự kết hợp giữa chính quyền địa phương, các sở ngành là cơ quan tham mưu, các chuyên gia, nhà khoa học, các đơn vị truyền thông báo chí để cùng truyền tải được thông tin đến người dân, đến các Bộ, ngành, chính phủ thì việc hiện thực hoá những dự án quy mô vùng liên tỉnh, những dự án mang nhiều ý nghĩa xã hội như vậy sẽ được triển khai nhanh và khả thi.

27/03/2024 11:47

Ông Đặng Văn Ngọ - Tổng giám đốc Công ty cổ phần Cấp nước tỉnh Sóc Trăng cho biết, tình trạng thiếu nước hiện nay không riêng gì trong ngành cấp nước mà cả các ngành sản xuất nông nghiệp Đối với nước hiện hiện nay cơ bản là có hai cái loại nước: một là nước bề mặt, tức là nước trên các sông, kênh và thứ hai là nước ngầm.
Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 19
Ông Đặng Văn Ngọ - Tổng giám đốc Công ty cổ phần Cấp nước tỉnh Sóc Trăng

Theo ông Ngọ, hiện nay các tỉnh ven biển như: Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau tạm thời ổn định do có lượng nước ngầm tương đối tốt. Tuy nhiên về lâu dài từng bước nó cũng không còn tốt như là chúng ta tưởng nữa.

Tại Sóc Trăng, nếu khoan giếng ở độ sâu 500 m bị lấn dần xâm nhập mặn. Độ mặn trên 1 phần nghìn ở giếng dưới tầng sâu và các cái giếng tầng nông thì ô nhiễm các tập kết khác, kể cả là các cái kim loại nặng khó xử lý.

Theo ông Ngọ, nói như thế để chúng ta hình dung được là không phải có cái chuyện xâm nhập mặn ở trên bề mặt của các dòng sông mà xâm nhập cả dưới lòng đất và ở các cái địa tầng càng lúc càng nghiêm trọng hơn. Như vậy, giải pháp mà để chống trội, sống được trong môi trường này là hết cần thiết.

“Cụ thể, hệ thống cống Cái Lớn – Cái Bé, hiệu quả nó đã mang lại như thế nào thì chúng ta cũng đã biết. ĐBSCL hiện nay còn 8 cửa sông. Theo thông tin tôi biết, khoảng giữa năm nay sẽ có ba cây cầu nối từ Tiền Giang, Bến Tre và Trà Vinh, cầu để làm vành đai ven biển. Như vậy, thay vì làm cầu chúng ta làm cống, có thể tiết kiệm được khoảng đầu tư rất lớn. Nếu chúng ta làm được việc này sẽ khép kín 8 cửa sông này, giữ nước và mùa mưa, dùng vào mùa khô. Nếu làm được như vậy chúng ta sẽ không còn lo tình trạng nước ở trên thượng nguồn có đổ về hay không, ông Ngọ chia sẻ.

PGS.TS Nguyễn Hiếu Trung - Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Cần Thơ: Như các ý kiến trước đó đã trao đổi, với câu chuyện hạn, mặn dự báo sẽ còn tiếp diễn, chúng tôi mong được nghe quan điểm của TS. Trần Hữu Hiệp, nguyên Ủy viên Chuyên trách, Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ trao đổi về câu chuyện kinh tế, thích ứng, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi như thế nào để phù hợp với quan điểm thuận thiên.

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 20

TS. Trần Hữu Hiệp, nguyên Ủy viên Chuyên trách, Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ

TS Trần Hữu Hiệp, nguyên Ủy viên Chuyên trách, Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ (chuyên gia về kinh tế, nông nghiệp vùng đồng bằng): Sức nóng của hạn mặn từ thực tiễn trong những tháng qua, đặc biệt là tháng 3 nên việc chọn chủ đề sống chung với hạn mặn rất phù hợp. Nếu nhìn lại lịch sử hình thành và phát triển, ĐBSCL ngay từ đầu người dân đã chọn sống chung nhưng tùy thời điểm nhận thức và có giải pháp thích ứng.

ĐBSCL có 2 mùa mưa – khô. Như vậy, từ kinh nghiệm thực tiễn hình thành nên tri thức bản địa của người dân trong việc sinh hoạt, sản xuất theo điều kiện sinh thái tự nhiên để thích ứng theo mùa. “Chúng ta đã một thời sống chung với lũ và bây giờ sống chung với hạn mặn, nhưng sống chung thế nào phải có hai vấn đề tiên quyết là từ yêu cầu thực tiễn và có giải pháp thích ứng thuận thiên. Nếu soi chiếu, phù hợp với tầm nhìn, định hướng được xác định trong nghị quyết phát triển vùng ĐBSCL”, ông Hiệp chia sẻ.

Từ những số liệu thực tiễn, ông Hiệp khẳng định, năm 2024 là một trong ba đợt hạn mặn dữ dội. Ông Hiệp dẫn chứng, kỳ hạn, mặn năm 2016 là lịch sử 5 năm mới có một lần trận hạn mặn khốc liệt, nhưng từ đó tới nay trong 10 năm thì lại xảy ra 3 trận hạn mặn. Điều này cho thấy nhịp độ hạn mặn có tính chu kỳ, nhanh hơn. Vì vậy, đặt ra cho chúng ta yêu cầu thích ứng.

Từ đó, giải pháp cần tập trung “3 cần – 4 có”. Đó là, cần có dự báo sớm, ngoài các kênh thông tin, mạng xã hội để tiếp cận đến mọi người dân; chủ động thích ứng và trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt; xem hạn hạn xâm nhập mặn là đặc tính chu kỳ và có thể có đề xuất để xây dựng kịch bản kinh tế, tổ chức đời sống dân cư cho phù hợp và tăng cường liên kết vùng giữa các địa phương.

Bốn có, như công bố cập nhật thường xuyên bản đồ hạn mặn; chủ động điều tiết hệ thống thủy lợi theo cơ chế vận hành nghiêm ngặt. Bên cạnh những giải pháp cấp bách, xử lý tình huống thì cần giải pháp công trình, nhưng phải đặt ra yêu cầu nguyên tắc ‘không hối tiếc’; tăng cường hợp tác quốc tế, tận dụng định chế của Ủy hội sông Mekong,…

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 21

PGS.TS Lê Anh Tuấn

PGS.TS Lê Anh Tuấn - cố vấn khoa học Viện nghiên cứu biến đổi khí hậu (Trường ĐH Cần Thơ): Gầy đây tôi đã trực tiếp đi một số vùng sạt lở ở Cà Mau, và nhận thấy nguyên nhân của tình trạng này do giải pháp công trình ngăn mặn chưa hợp lý, và điều này cần phải thay đổi. Chúng ta thấy, gần như theo chu kỳ từ năm 2016, rồi 2020 và nay là 2024, cứ 4 năm một lần sẽ có đợt hạn hán, xâm nhập mặn cao hơn trung bình nhiều năm. Ngoài tác động thiếu nước ngọt ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp, còn vấn đề về sụt lún trong ĐBSCL của những mùa khô gần đây. Đất của ĐBSCL là nền đất yếu, hầu hết đường giao thông được hình thành bên cạnh việc đào các con kênh, mương lấy đất đắp lên đường. Đất ĐBSCL về mặt cơ học phải có một độ âm nhất định, khi độ ẩm quá lớn sẽ gây nhão, khi độ ẩm quá ít lại gây co ngót dẫn tới sụt lún, sạt lở. Một số công trình ngăn mặn đưa nước ngọt vào, nhưng ở một số thời điểm khí hậu cực đoan, như mùa khô năm 2016, 2020 hay năm nay, vấn đề sụt lún đã xảy ra, đặc biệt là ở Cà Mau. Điển hình như ở huyện Trần Văn Thời (Cà Mau), có nơi sụt lún tới 2m, dù địa phương áp dụng một số giải pháp như hạn chế xe tải nặng qua các tuyến đường có nguy cơ sụt lún cao, nhưng ngay cả ban đêm không có xe chạy vẫn dẫn tới sụt lún, sạt lở cục bộ.

Tôi đã có những chuyến đi về vùng sụt lút và nhận thấy, với các công trình ngăn được mặn, nhưng rất tiếc là phần cấp nước ngọt bổ sung lại không có, nên đất co ngót, phản áp suất không còn, nên dễ dàng chịu tác động và sụt lún. Đôi khi chúng ta mong muốn ngăn mặn, giữ được ngọt, nhưng đôi khi lại dẫn tới hệ quả khác, và tác hại không nhỏ, đất đã sụt lún thì không còn cách gì có thể nâng lên được. Đấy là thiệt hại chưa tính tới được.

Hội thảo hôm nay đã nghe tiếng nói của các nhà quản lý, nhà khoa học, nên cần thêm tiếng nói của cộng đồng, người dân. Người dân ven biên của ĐBSCL đã sống chung với hạn, mặn từ 300 năm nay rồi. Tuy nhiên, càng ngày càng phức tạp hơn, người dân hoàn toàn chủ động việc này, vì họ sẽ phải tìm giải pháp để giảm thiệt hại. Tôi đồng tình với ý kiến của đại diện Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT là phải tăng cường dự báo và cảnh báo sớm, thông tin cho người dân. Có nhiều người dân tự đầu tư trang bị máy đo mặn, sau đó thông báo trong cộng đồng với nhau. Ở các vùng ngọt, chưa cần tới dự báo của cơ quan chức năng, họ đã tự dự báo và chuẩn bị ứng phó, như xuống giống sớm hơn để tránh hạn, mặn. Mặc dù chỉ đạo của cấp chính quyền là xuống giống trước cuối tháng 12/2023, nhưng có nhiều vùng giữa tháng 11/2023 đã xuống giống rồi, vì liên quan sinh kế của họ, nên phải chủ động.

Người dân cũng biết trữ nước trong điều kiện của họ, một thời gian cấp nước tới người dân nên các thiết bị chứa nước giảm. Tuy nhiên, vài năm gần đây hạn, mặn ngày càng gay gắt, nên hình ảnh lu, vại chứa nước đã quay trở lại... Người dân đã chủ động hơn, nên giảm nhiều áp lực cho cấp nước sinh hoạt. Người dân cũng biết cách chuyển đổi sản xuất, như lúa - tôm, để thích nghi. Tôi nghĩ rằng, giải pháp của người dân cũng là gợi ý cho nhà khoa học, chính quyền để có thể nhân rộng. Đây là giải pháp thiết thực cho người dân.

Các giải pháp trên tạo sinh kế mới cho người dân, lúc đó chúng ta có thể coi hạn, mặn không phải là vấn đề gì nghiêm trọng. Năm 2016, có 10/13 tỉnh thành phát cảnh báo về hạn mặn, kêu gọi các tổ chức hộ trợ. Năm nay dù hạn, mặn cũng rất khốc liệt, nhưng người dân đã khá chủ động.

Do đó, bên cạnh giải pháp của nhà quản lý, cũng cần hỗ trợ người dân các giải pháp thích nghi của họ để giảm áp lực, ảnh hưởng của hạn, mặn.


27/03/2024 12:00

Nhiều dự án lớn về nước sạch đang được triển khai

Nhà báo Phùng Công Sưởng - Phó Tổng biên tập báo Tiền Phong: Một số ý kiến chuyên gia cho rằng, không phải ở đâu cũng phù hợp để đầu tư hệ thống cống ngăn mặn, mà phải nghiên cứu kỹ càng để phù hợp với thực tế từng nơi, hướng tới sống chung với hạn, mặn một cách hài hoà, ngăn sụt lún, sạt lở, là chủ đầu tư một số cống lớn trên địa bàn, chúng tôi mong được nghe ý kiến của Kiều Văn Công - Phó Giám đốc Ban Quản lý đầu tư và xây dựng thủy lợi 10 (Bộ NN&PTNT):

Kiều Văn Công Phó Giám đốc Ban Quản lý đầu tư và xây dựng thủy lợi 10 (Bộ NN&PTNT): Giai đoạn 2016-2021, Bộ NN&PTNT đã có nhiều dự án, trong đó điển hình là dự án cống Nguyễn Tấn Thành (Tiền Giang), đã kiểm soát được hai năm, phục vụ bảo vệ 41000ha và dự án hệ thống thủy lợi Nam Sông Hậu (Sóc Trăng, Hậu Giang) phục vụ 19.000ha và tạo nguồn cho 36.000ha, phục vụ đa mục tiêu, dự kiến mùa khô sau vận hành kiểm soát được mặn. Dự án thủy lợi Nam Mang Thít khi hoàn thành cũng sẽ khép kín vùng Vĩnh Long, Trà Vinh…

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 22

Hiện nay hàng loạt dự án cũng đang được trình, trong đó có dự án chuyển nước từ sông Hậu về Cà Mau; hay dự án làm cống sông Hàm Luông ở Bến Tre… Về giải pháp công trình, làm gì cũng có hai mặt, khi làm, đã đầu tư thì cân nhắc lợi ích nhiều hơn mới quyết, đồng thời giảm thiểu thiệt hại. Việc đắp đập, xây cống không phải là ngăn sông, mà vận hành kiểm soát một cách hợp lý…

27/03/2024 12:08

Nhiều giải pháp, gợi ý hiệu quả được nêu ra để tìm lời giải cho việc “sống chung với hạn, mặn vùng ĐBSCL”

Tổng kết Hội thảo, PGS.TS Nguyễn Hiếu Trung, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Cần Thơ phát biểu: Hội thảo Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long do báo Tiền Phong tổ chức, với sự đồng hành của Trường ĐH Cần Thơ rất đúng thời điểm. Đặc biệt khi mùa hạn, mặn năm nay được đánh giá là nghiêm trọng hơn trung bình nhiều năm, và giải pháp thích ứng, sản xuất thuận thiên, sống chung với hạn, mặn là giải pháp cần phải được đề cập tới.

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 23

Trong một buổi, đại diện nhà quản lý, chuyên gia, địa phương đã đưa ra câu chuyện thực tế, các dự báo, góp ý nhiều giải pháp thiết thực, hiệu quả và gợi ý để tiếp tục nghiên cứu thời gian tới để tìm lời giải cho việc “Sống chung với hạn, mặn vùng ĐBSCL” trong thời gian tới.

Hội thảo "Sống chung với hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long" ảnh 24

Các đại biểu dự hội thảo chụp ảnh lưu niệm cùng ban tổ chức

Thay mặt ban tổ chức, chúng tôi trân trọng cảm ơn các quý vị đại biểu, khách mời, chuyên gia đã dự và cho nhiều ý kiến thiết thực, có giá trị tại hội thảo, cảm ơn các cơ quan thông tấn, báo chí đã dự và đưa tin hội thảo.

MỚI - NÓNG