Địa danh Sài Gòn xuất hiện từ bao giờ?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án B: Nói về tên gọi Sài Gòn thì lâu nay vô số người tò mò. Theo tác giả tập sách Tạp ghi Việt Sử Địa (tập 3, NXB Trẻ) Nguyễn Đình Đầu thì: “Tên Sài Gòn xuất hiện rất sớm, có lẽ ngay từ buổi đầu khi lưu dân Việt Nam tới khẩn hoang vùng đất này từ cuối thế kỷ 16 hay đầu thế kỷ 17". Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu cho biết thêm: "Hiện mới nhận diện được hai chữ Hán Nôm Sài Gòn, mà Lê Quý Đôn đã ghi trong Phủ biên tạp lục viết năm 1776, kể lại biến cố: Tháng 4 (1672), Nguyễn Dương Lâm chia quân làm hai đạo nhân đánh úp lũy Gò Bích, chặt đứt bè nổi và xích sắt, tiến thẳng vào thành Nam Vang. Nặc Đài chết, Nặc Thu ra hàng. Tháng 7 rút quân về lập Nặc Thu làm chính quốc vương đóng ở Cao Miên, Nặc Nộn làm Thứ trưởng Quốc vương đóng ở Sài Gòn, hàng năm triều cống" (Lê Qúy Đôn toàn tập, trang 62). "Như vậy, hai chữ Hán Nôm Sài Gòn đã xuất hiện từ 1776 để nói lên cái tên Sài Gòn của một địa phương đã có ít nhất từ năm 1776 đến nay, không hề thay đổi, vẫn giữ nguyên một dạng mãi mãi”, ông Đầu khẳng định. Năm 1674, Sài Gòn là tên thành lũy ở vùng Chợ Lớn ngày nay. Cuối thế kỷ 19, Sài Gòn được coi như một thành phố. Năm 1863, chính quyền lập thành phố Sài Gòn và hạt Sài Gòn; năm 1889 đổi hạt Sài Gòn thành tỉnh Gia Định. Năm 1910, thành phố Sài Gòn rộng hơn 11 km2. Từ đầu thế kỷ 20, người Pháp đã nỗ lực tìm hiểu nguồn gốc của địa danh Sài Gòn - thành phố mà họ muốn biến thành Hòn Ngọc Viễn Đông. Nhưng cái tên dung dị, thân quen ấy kể cả người Việt cũng đều không rõ nghĩa. Sau hơn 300 năm hình thành, phát triển, nhiều thế hệ học giả vẫn chưa thống nhất về nguồn gốc tên gọi này. Trong rất nhiều công trình nghiên cứu, Sài Gòn có năm cách lý giải, bao gồm: Thầy Gòn; Đê Ngạn, Đề Ngạn, Tây Cống; Củi Gòn, Cây Gòn, Prey Kor, Cai Ngon; Glainagara; Prey Nokor hay Brai Nagara. Căn cứ vào từ "Sài" nghĩa "củi" và "Gòn" tức "cây bông gòn", quyển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị của ông Huỳnh Tịnh Của cho rằng nghĩa của Sài Gòn là "củi gòn". Còn theo nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển, khi người Hoa rời Cù lao Phố (Biên Hòa) vào năm 1773, đã tụ về vùng đất mới Chợ Lớn ngày nay. Họ nhận ra đây là nơi ăn nên làm ra cần được củng cố cho thật bền vững. Người Hoa cho đắp thêm bờ kinh cao ráo và kiên cố hơn, và gọi vùng đất này là "Tai-Ngon" hay "Tin-Gan" mà theo Hán Việt là Đề Ngạn. Đề Ngạn phát âm theo giọng Quảng Đông nghe ra là "Thầy Ngồn" hay "Thì Ngòn". Và đó chính là âm để gọi vùng đất Chợ Lớn thời ấy. Theo thuyết này của cụ Vương thì âm "Sài Gòn" là từ "Thầy Ngồn", "Thì Ngòn" mà ra.
Nguồn gốc tên gọi Củ Chi là gì?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Củ Chi là một trong năm huyện của TP HCM, phía bắc và đông giáp tỉnh Bình Dương, phía tây giáp Tây Ninh và Long An. Củ Chi là tên gọi dân gian của cây mã tiền có nhiều ở vùng đất này vào thời đó. Cây mã tiền là loại cây rừng, leo bằng móc, lá mọc đối có ba gân, hoa trắng, quả tròn, hạt dẹt như khuy áo, dùng làm thuốc. Củ Chi trở thành địa danh hành chính năm 1956. Huyện Củ Chi vốn là hai quận Củ Chi (Hậu Nghĩa) và quận Phú Hòa (tỉnh Bình Dương) nhập lại. Do chiến tranh, tháng 8/1968, Củ Chi được tách ra thành hai huyện Nam Chi và Bắc Chi.
Rạch Thị Nghè còn được dân gian gọi là rạch Bà Nghè. Vì sao bà được người dân gọi bằng danh xưng này?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Rạch Thị Nghè là tên gọi của đoạn kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè chảy qua quận 1, TP HCM. Nối quận 1 và Bình Thạnh qua đoạn kênh này là cầu Thị Nghè. Rạch Thị Nghè bắt nguồn từ Bàu Cát (quận Tân Bình hiện nay) chảy qua kênh Nhiêu Lộc rồi đổ ra sông Sài Gòn chỗ nhà máy đóng tàu Ba Son. Khúc ngọn này mang tên Nhiêu Lộc, xưa gọi là Hậu Giang, nơi Nguyễn Ánh thường chọn làm nơi đóng binh trước khi đánh Sài Gòn. Con rạch chính từ cầu Nguyễn Văn Trỗi đến sông Sài Gòn dài hơn 4,5 km, tuy ngắn nhưng quan trọng, có giá trị như một hào hố thiên nhiên, bao quanh Sài Gòn lúc bấy giờ. Trịnh Hoài Đức từng ghi chép về bà Nghè trong sách Gia Định thành thông chí: "Có chồng là thư ký mỗ, nên người đương thời gọi là Bà Nghè mà không xưng tên. Sở dĩ có tên ấy là khi đầu bà khai hoang đất ở, bắc cầu ngang qua để tiện việc đi lại nên dân gọi là cầu Bà Nghè, cũng gọi sông ấy là sông Bà Nghè". Bà Nghè, Mụ Nghè, Thị Nghè là những danh xưng thân mật và kính trọng người đời gọi bà Nguyễn Thị Khánh, con gái quan khâm sai Nguyễn Cửu Vân. Bà xây cầu bắc ngang con rạch để chồng tiện đường qua Sài Gòn làm việc. Chồng bà chỉ là thư ký, đương thời gọi là ông Nghè (tức đỗ tiến sĩ). Huỳnh Minh trong Gia Định xưa và nay chép: "Dân chúng địa phương gọi là Bà Nghè theo chức tước của chồng bà là một vị quan văn trong Phiên trấn". Từ giữa thế kỷ 19, cầu được gọi tên Thị Nghè, đến năm 1970 được xây mới bằng xi măng cốt thép.
An Thít là địa danh quen thuộc với người dân huyện Cần Giờ trước đây, ban đầu nó có tên gì?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án B: Theo sách Hỏi đáp Sài Gòn - TP HCM (tập 1 - Địa lý và Lịch sử, NXB Trẻ), An Thít năm 1880 là một trong 19 tổng của hạt Sài Gòn, gồm năm xã thôn. Hiện, địa danh này chỉ còn là con tắc ở huyện Cần Giờ. Trong chuyên khảo về tỉnh Gia Định (1902) và nhiều bản đồ của Pháp ghi là tổng An Thịt. Song đúng ra phải viết là Ăn Thịt, bởi ngày xưa nơi này nổi tiếng có nhiều cọp dữ hay ăn thịt người. Huyện Cần Giờ có nhiều sông rạch nhất TP HCM. Hai sông Đồng Nai và Sài Gòn hợp lưu ở Xóm Đồn, kéo dài tới Xóm Quán hơn 9 km, đoạn này gọi là sông Nhà Bè. Cùng với tắc An Thít, nơi này có nhiều sông rạch khác như: rạch Ông Nghĩa, Châu Hậu, sông Lôi Giáng, sông Giày Xay, sông Tắc, sông Trậu, rạch Su, rạch Dinh Cậu, tắc Lớn, tắc Cả, rạch Cây Khô, tắc Bà Kiều, tắc Bà Hói, sông Đồng Dinh, tắc Trầu, rạch Mồng Năm, tắc Ăn Chè, tắc Lò Vôi...
Bến Lức là một phụ lưu bên tả sông Vàm Cỏ Đông. Đúng ra địa danh này được viết thế nào?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án B: Bến Lức là phụ lưu bên tả sông Vàm Cỏ Đông, phần lớn chảy trên địa bàn tỉnh Long An, một phần chảy vào huyện Bình Chánh, nhập với sông Chợ Đệm làm ranh giới giữa thị trấn Tân túc và xã Tân Nhựt. Đại Nam quốc âm tự vị (1895) của Huỳnh Tịnh Của ghi: "Lứt là thứ cây lá nhỏ, hay mọc mé biển". Còn Génibrel tác giả cuốn Dictinaire Annamite Francais (1898) định nghĩa "lứt" là tên một loại cây có lá ăn được. Cây lứt thuộc họ cúc, tên khác là lứt cây theo cách gọi dân dã của người dân Nam Bộ để phân biệt với lứt dây, mọc hoang ở ven biển trên các bờ kênh rạch truông gai, cửa sông, từ Nghệ An đến các tỉnh đồng bằng Nam Bộ. Loại cây thứ hai là dây lứt, thuộc họ cỏ roi ngựa, tên khác là lứt dây, mọc hoang rải rác bãi cỏ ven đường, bờ đê, bờ ruộng, bìa rừng, có nhiều ở vùng biển. Do người Nam Bộ phát âm không phân biệt phụ âm cuối "c" và "t" nên đọc và viết sai Bến Lứt thành Bến Lức. Bến Lức hiện cũng là tên một huyện ở tỉnh Long An, giáp ranh với TP HCM.
Tên gốc của địa danh Cát Lái là gì?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Cát Lái là tên gọi một ngã ba, phường, bến phà và một cảng container quốc tế ở quận 2. Theo các nhà nghiên cứu, nếu viết Cát Lái là vô nghĩa, chính xác phải là Các Lái với nghĩa các lái buôn. Theo sách Hỏi đáp Sài Gòn - TP HCM, Cát Lái xưa là nơi các lái buôn thường tập trung mua bán. Trong dân gian vẫn còn lưu truyền những bài vè về các lái buôn ghe bầu từ miền Trung vào Gia Định với hai bài "Vè lái vô" và "Vè lái ra".
Ở Sài Gòn thì có cầu Kiệu. Tên đầy đủ viết là gì?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Ở Sài Gòn thì có “cầu Kiệu” bắc qua rạch Thị Nghè, nối đoạn quận 1 với quận Phú Nhuận. Thực ra cầu Kiệu có tên đầy đủ là cầu Xóm Kiệu.
Thủ Dầu Một (Bình Dương) được gọi tên như vậy. Vì sao?
Giải thích Câu trả lời đúng là đáp án A: Ở Nam Bộ còn có tên địa danh dựa vào những sản vật đã có từ xưa ở đó. Ví dụ như Thủ Dầu Một (Bình Dương) được gọi tên như vậy vì ngày xưa ở đó có cây dầu to cao nằm cạnh đồn canh (thủ) nên mọi người gọi là Thủ Dầu Một. Địa danh Tràm Một ở tỉnh Tiền Giang hiện nay cũng vậy, sở dĩ mọi người gọi như vậy vì trước đây có một cây tràm to đứng một mình. Địa danh Xoài Đôi ở tỉnh Long An do có 2 cây xoài to đứng cạnh nhau nên mọi người lấy tên Xoài Đôi đặt cho địa danh này. Tương tự ở tỉnh Tiền Giang có 4 cây xoài đứng cạnh nhau, mọi người liền lấy tên “Xoài Tư” đặt cho nơi này.
Kết quả
Bạn hãy chăm chỉ hơn nhé!
Điểm
Địa danh Sài Gòn xuất hiện từ bao giờ?